Wednesday, March 19, 2014

Noi va Lam / Loi Ho Nguyen Cao Vy



Người đưng trước microphone Tr/Úy HY râu, người đang khom khom (không phải ngồi) là Tr/Úy Nguyễn Cao Vỹ


Chỉ một lời nói hoặc một lời hứa đôi khi cũng làm ta nhớ  đến ai đó.
Tôi muốn nhắc đến Trung Úy Nguyễn cao Vỹ và Đại Úy Đoàn kim Tuấn.
Tôi là một Dân Sự Chiến Đấu (CIDG) và là thông ngôn (interprete) Tiếng Tây đọc nghe giống như “anh nói phét”. Tôi làm việc cho Trung Tá Snell (người da màu, cao nghệu) CO của FOB#1 Phú Bài.

 Công việc văn phòng rất nhàn nhã nhưng bị bó chân quanh quẩn lâu ngày trong trại khiến tôi ngán ngẩm, tôi xin qua làm việc cho Chỉ huy trưởng Tiền Doanh 1 lúc ấy là Đại Úy Đoàn kim Tuấn (Tuấn con) .
Là người miền Nam, ông ăn nói từ tốn, thích dùng câu chữ bóng bảy dạy đời.
Dáng người mảnh dẻ, đi đứng khoan thai, ông thích hợp trên bục giảng. Thật khó tin khi nghe ông từ TĐ 1/ SĐ Dù phái qua.
Những ngày Chủ Nhật, ông thường ra Huế chơi.
Tôi được ông tin cẩn nhưng không được ông ưa.
Có lẽ vì tôi có họ hàng xa với Trung úy Phạm văn Hy (Hy râu) Chỉ huy Phó của ông.
Ông ghét Hy râu vì là “thằng bắc kỳ”. Tôi bị lây.
Là một Đại úy trẻ, đẹp trai nên nhiều em mê nhưng ông là người chung thủy với vợ.
Ông quen cô Thu, người đẹp ngõ Nam Long (cầu Bạch Hổ đi thẳng qua).
Cô để tóc thề, nhỏ nhắn , chúm chím luôn miệng “anh Tuẩn..anh Tuẩn”.. chân nhảy chim sáo mỗi khi  ông đến . Một hôm ông ngủ lại nhà cô, trên giường chỉ có hai người. Sáng dậy, cô vẫn nhí nhảnh. Qua nét thơ ngây, tôi biết …ông yêu nàng như yêu một bức tranh đẹp. Chính ông cũng thú nhận như vậy. Platonique !
Còn một tháng nữa là Tết Mậu Thân.
Nhớ bạn bè, tôi lên gặp ông và xin đặt cọc được về phép Tết 07 ngày. Ông nói : “Được , tôi hứa với chú !” Lòng vui rộn rã  tôi viết thư báo tin cho bạn bè : Tết này tao sẽ về.
Ôi  Saigon, dancing Tự Do với các em Minh Sơn, Thu Hương, Thanh Thúy “tàu”, Thu “lai”.. Olympia với Kiều Chinh, Bích Ly . Mỹ Phụng với các em Trang, Thủy và cả đám bạn bè Quý lỏi, Triển, Tuấn hô, Chính đang chờ đợi.
Còn mươi ngày là Tết. Tôi chỉnh tề, chắc mẩm, lên gặp ông Tuấn để lấy phép. Thật không ngờ, tôi bị ông từ chối một cách lạnh lùng: “Không đi đâu cả, ở lại trại !” Một chén nước lạnh hắt vào mặt .
Cảm xúc khó diễn tả, nghẹn ngào, uất ức, ngỡ ngàng.
Vâng, thưa  Đại Úy ! Nghèn nghẹn trong cổ , tôi nghiêm chào và thất vọng ra về.
Những cây mai (trồng dọc bên Trung Tâm Huấn Luyện Đống Đa) có hoa lác đác nở. Tôi kéo cao cổ áo Field Jacket cho bớt lạnh, rút điếu Pall Mall ra đốt. Bật quẹt Zippo đến mấy lần mà cũng không cháy…gió cuối Đông quái ác cả với tôi. Vò nát điếu thuốc, tôi về phòng buông mình xuống giường chán nản.
Chỉ ít ngày nữa là giỗ ông Táo…
Tôi nghĩ đến lời hứa của ông Tuấn. Tại sao ông làm vậy ? Hay ông giận vì có lần đến thăm nhà ông, gặp vợ ông tôi buột miệng: Chào chị Thu …
Không lẽ ??
……………………………………………………………………………………
Tết Mậu Thân , Tiền Doanh 1 Phú Bài.

Ầm …ầm ..ầm …Chíu chíu..Ùng Oàng…
Việt Cộng pháo kích lung tung, vô tội vạ, bừa bãi không có mục tiêu rõ rệt !
Toàn trại được lệnh bỏ sam, ra ngoài vành đai tuyến phòng thủ.
Đêm đó, trại lãnh mấy quả nhưng chưa biết chỗ nào. Hỏa châu đầy trời, đại bác ì ầm, súng nhỏ ròn nổ gần xa.
Đang nằm căng mắt nhìn qua lỗ châu mai trong hầm trú ẩn tôi nghe lao xao và có tiếng gọi: Chung đâu ? George đâu ?
(George là tên mà người Mỹ gọi tôi khi cần giúp.) Tiếng gọi vẫn ý ới xen lẫn tiếng súng đại liên nổ ròn xa xa và tiếng ì ầm của pháo binh ta và hỏa tiển địch rơi vãi. Nhìn về phía Huế, những ánh lửa chớp sáng liên hồi.
Nhìn ra, tôi thấy Trung Úy Vỹ, Toán trưởng toán đặc biệt Lê Lợi (tất cả toán viên đều là ARVN, không có BKQ, đi công tác toàn xử dụng AK47) đang cùng đi với Trung Tá Snell. Tôi trèo lên, nghiêm chào . Hỏa châu lốp bốp nở sáng trên trời,  tôi thấy ông Snell lêu nghêu, đen bóng tương phản với ông Vỹ nhỏ con, trắng trẻo trông rất thư sinh mà tôi mắc cười.
Phong phanh trong chiếc áo nhái (áo lót của QĐ Hoa Kỳ) màu rêu,vai choàng khẩu AK47, ông Vỹ ngắn gọn : “ Cả hai ông Trưởng, Phó đều đi phép và kẹt lại Saigon, tôi là sĩ quan VN cao cấp nhất còn lại, Trung Tá Snell lên kế hoạch cho trại, do đó tôi cần thông dịch viên.”
Tôi không gần ông Vỹ nhiều như các ông Tuấn, Hy. Ngày ông về trại, tôi nhớ ông đã gặp chuyện với ông Hy. Ông ở bên BĐQ chuyển qua, đến trình diện ông Tuấn. Hôm ấy có mặt ông Hy. Ngỡ là đồng cấp Trung Úy, ông Vỹ sôi nổi anh anh tôi tôi với ông HY (thật ra ông Vỹ chỉ muốn chân tình, mộc mạc với đồng cấp . Ong Vỹ có tính cách chân chất,  mộc mạc đáng quý của người Nam bộ ) Nhưng ông Hy  nghiêm mặt thẳng thừng: Trung Úy phải gọi tôi là Trung Úy và dạ, thưa cho đúng mực vì tôi là Trung Úy Chỉ Huy Phó ..hiểu chưa ? . Ông Vỹ choáng váng, sượng sùng : Vâng, thưa Trung Úy !
Quả thật, ông Hy quá đáng. Cũ hù mới . Ông Tuấn hòa dịu nhẹ nhàng : Thôi đi ! Tôi bảo thôi đấy…
Từ hôm ấy tôi đâm ghét ông Hy và mến ông Vỹ. Ông vui vẻ, thẳng thắn chẳng khác  ông Trung Úy Lê Minh (Minh đen) vậy. Nghe ông Vỹ kể chuyện, bất cứ chuyện gì cũng thấy sôi nổi, ngay cả chuyện cái áo lạnh màu xanh, trắng mà người nhà của ông từ Canada gửi qua, ông cũng sôi nổi về những kỷ niệm với người gửi chứ đừng nói chi đến chuyện ông kể lại những chuyến đụng độ trong rừng. Ông hào phóng với nụ cười , do đó mọi người đều mến ông nhất là khi ông cười có thấp thoáng chiếc răng niền vàng. Tôi thấy lạ với ông Trung Úy BĐQ trắng trẻo, roi roi người có dáng thư sinh mà lại nhập qua đơn vị Lôi Hổ này. Tôi thầm nghĩ , ở nhà chắc công tử này ẻo lả lắm. Tôi lầm !!! Lầm to !
Vói tay lấy cây CAR15 , tôi bước ra theo ông Snell và ông Vỹ. Cao lêu nghêu nhưng nhanh nhẹn, ông Snell nhảy qua những giao thông hào dễ dàng. Nhỏ gọn như thư sinh nhưng ông Vỹ chẳng thua kém, ông cũng phóng qua hào, băng băng trên nóc những hầm trú ẩn. Còn tôi chậm rãi theo sau. Đến những nơi thấy không vừa ý, ông Snell trao đổi với ông Vỹ… tôi dịch lại và ông Vỹ ôn tồn nhưng sắc nét với anh em BKQ: “ Trần thấp và mỏng quá, các anh phải đắp thêm bao cát “.. Các anh nên thế này… thế khác.. Có lúc ông Vỹ dừng lại truyện trò với các anh em BKQ sau đó bước nhanh theo Trung Tá Snell và đề nghị cấp thêm nhu cầu mà anh em BKQ muốn. Tôi cảm mến vị sĩ quan trẻ này. Những ngày này ông lăng xăng khắp nơi trong doanh trại, tìm hiểu, dặn dò . Vì cắm trại 100%, không mua được đồ tươi sống, phải ăn toàn đồ hộp  nên ông cẩn thận dặn dò Trung sĩ Tốn, người phụ trách nhà ăn của Toán nên thế này, phải thế khác. Tôi phát mệt với sự chu đáo của ông . Vì mọi nhận định của ông tôi đều phải dịch lại với ông Snell và ngược lại. Tôi cũng không được nghỉ nhiều.. Mệt chẳng kém
Những ngày Tết không có Tết này, Phú Bài lạnh cóng. Đang co ro trong hầm với chiếc Poncho linen màu hoa dù, mắt căng ra qua màn đêm bỗng nghe tiếng gọi: Chung đâu ? George đâu ? Tiếng ông Vỹ từ xa. Nản quá, lại có chuyện nữa.. Tôi miễn cưỡng: Thưa Trung úy, tôi đây… Tiếng hỏa châu lốp bốp nổ trên trời, qua ánh sáng nhá nhem tôi thấy Trung úy Vỹ sôi nổi: Lẹ lên !..Chung , có chuyện cần xong lần này tôi thưởng cho cậu.. tôi nghĩ đến lời hứa của ông Tuấn , tôi hỏi lại:  Có quà ư ? Trung úy hứa nhé ? ra Huế ngủ đò hén? Ông nghiêm mặt : Tôi chỉ nói sẽ thưởng, nhưng tôi không hứa . Đi mau theo tôi… Đến nơi, té ra chẳng có gì quan trọng.. vài anh em BKQ ở đại đội trấn gần cổng trại vì quá lạnh, họ tháo phá những tấm lát giường để đốt sưởi ấm, HSQ an ninh trưc trại người Mỹ không hiểu nên có chuyện. Trung úy Vỹ kịp đến và tôi giúp ông giải thích.
Ông Vỹ luôn lăng xăng đây đó giải quyết việc trong trại những ngày vắng Chỉ huy trưởng, thiếu Chỉ huy phó. Lời ông nói, việc ông làm ông đều được ông thực hiện trọn vẹn. Tôi quý ông Vỹ và nhanh chóng quên chuyện ông đã nói gì ..


 Mấy ngày sau, ông Hy từ Sàigòn ra . Ông Hy cho đào một hầm CP (command post) đặt máy truyền tin để báo cáo về Sở Liên Lạc. Hạ sỹ Thương và một HSQ nữa (không nhớ tên) hằng đêm ngồi quay máy truyền tin đầu bò. Lúc ấy, ông Hy, ông Vỹ, Trung sỹ Vang, Trung sỹ Phồn và tôi cùng chơi Phé sát phạt nhau. Ngoài kia , đêm đen lạnh giá..trong hầm chúng tôi vẫn ồn ào tố Phé nhau. Ông Hy có cái máy AKAI cầm đi chuộc lại mấy lần trong đêm. Tình chiến hữu luôn đằm thắm… ông Vỹ lâu lâu bỏ ra ngoài đi vòng quanh trại thăm hỏi, truyện trò, phì phèo thuốc lá cùng anh em BKQ.
Mấy ngày sau ông Tuấn mới từ Saigon ra.
Chẳng có gì lớn lao sau đó, trừ một việc khiến tôi buồn. Tất cả các sam trong trại đều nguyên vẹn trừ sam của các Toán cháy đen vì trúng hỏa tiễn của VC. Không còn gì ngoài nên xi măng và những tấm tôn xạm khói. Tôi nhớ như in về những lá thư, những bức ảnh của Vân, người tôi yêu, lần cuối cùng đọc xong tôi cất trong ngăn kéo trên cùng của bàn làm việc. Giờ đây trên nền hoang tàn, chẳng tăm tích gì còn lại.
………………………………………………………………………………

Mọi việc dần trở lại bình thường khi VC bị đánh lui, Huế được tái chiếm. Người vui vì được trở về nhà, người buồn khóc thương cho người thân bị VC sát hại. Nhưng Huế tang thương quá, Huế điêu tàn đến buốt ruột. Bao nhiêu gia đình bị mất mát người thân. Cửa nhà nát tan. Nhà thờ, đình chùa cũng thế. Đạn bom đã cướp đi mọi thứ.  Huế điêu tàn. Trong trai có nhiều nhân viên dân chính bị VC lại tận nhà sát hại. Hình như gia đình bên vợ của Đại úy Tống hồ Huấn cũng không tránh khỏi. Tất cả chỉ biết ngậm ngùi xẻ chia, nhìn nhau ái ngại. Biết nói gì !
Một hôm, Trung úy Vỹ từ Saigon ra, gọi tôi đến và nói: Quà của Chung đây ! Ngạc nhiên đến ngớ người. Tôi nhìn tờ giấy dàu vàng cuộn tròn và cái hộp vuông bé xíu như hộp quẹt. Ông nhắc: Mở ra đi ! Tôi nhíu mày chầm chậm mở tờ giấy: Anh Dũng Bội Tinh ngôi sao đồng. Tên họ đầy đủ của tôi.. bên tay kia là cái hộp nhỏ đựng mề đai . “ Tôi có làm gì xứng đáng ?” “Có đấy” Tôi nhận quà từ tay ông Vỹ lòng nhiều cảm xúc.
Tôi thấy ngượng nhưng không thể nào từ chối ông Vỹ. Tôi rất trang trọng nhưng không bao giờ đeo mề đay ấy. Trong thẳm sâu, tôi thấy ngượng nhưng tôi hiểu ông Vỹ muốn gửi gấm gì ở tôi. Tôi nhớ lại lới ông: Tôi nói chứ tôi không hứa .
Chuyện nọ lại xọ chuyện kia. Lời ông Tuấn hứa và lời ông Vỹ nói.
Cám ơn Đại úy Tuấn và cám ơn Trung úy Vỹ.
Nếu ông Tuấn không hứa thì lời nói của ông Vỹ cũng chả có ý nghĩa là bao.
Nếu ông Tuấn giữ lời hứa thì tôi không có dịp để hiểu biết về ông Vỹ.
Lời hứa của người ngồi bàn giấy
Lời nói của người xông trận


Tiền Doanh một chuyển trại về CCN/Đà nẵng. Chiến đoàn trưởng Trung Tá Nguyễn Tuấn Minh. Trại nằm dưới chân núi Non Nước, sát bờ biển .
Tôi làm việc dịch thuật huy chương dưới quyền Đại úy Trần lưu Huân sau lên Thiếu Tá. Ông Hy lên Đại úy và làm bên Ủy Ban Hỗn Hợp Quân Sự Bốn Bên
Ông Vỹ lên Đại úy và làm bên phòng Hành Quân ở TOC nhà đen. Ông Tuấn về Sở lên Thiếu Tá
Tôi và ông Vỹ vẫn thăm hỏi nhau, có lần uống bia nữa. Thi thảng thôi !
Ong Hy ở xa về có tặng tôi một bê rê đỏ hiệu Plein Ciel (mũ đúc của Pháp).
Một tối, đang hát hò trong đám có cả ông Hy, bỗng nghe tin ông Vỹ bay Covey, máy bay  trúng đạn địch rơi tan xác.
Căn phòng bỗng lặng. Mọi người nhìn nhau không nói.
Ông Hy buông cuốn tập nhạc sững sờ. Tôi ngưng đàn, cổ họng khô đắng.
Chúng tôi ai nấy về sam của mình. Lòng trĩu nặng tôi ngoái nhìn ông Hy. Có giọt nước long lanh nơi khóe mắt của ông râu. Ai bảo Lôi Hổ không biết khóc ? Sóng biển vỗ bờ nghe như tiếng gào..



“Tôi nói chứ tôi không hứa”…Nhớ lại lời ông Vỹ .
Hai động từ Nói và Hứa không liên quan với nhau nhưng với tôi chúng mang nhiều cảm xúc mỗi khi phải dùng tới.
Nguyện xin linh hồn cố Thiếu Tá NGUYỄN CAO VỸ yên ả trên cõi vĩnh hằng.


Ở bên VN này, mỗi khi đi ngang qua Sở cũ, tấm bảng viết Trại NGUYỄN CAO VỸ không còn nữa, nhưng chúng tôi những người biết anh thì không bao giờ quên anh được. 

Lần đầu tiên kể về một chuyện trong đời Lôi Hổ .






Xin Được Cảm Ơn Em / Thơ và Nhạc / Lôi Hổ Hùynh Ngọc Thương

Hùynh Ngọc Thương




Ở MỘT PHƯƠNG GIÁC NÀO ĐÓ
KHI MẶT TRỜI KHÔNG CÒN QUAY VỀ CHỐN CŨ
ANH MỘT MÌNH LANG THANG NGẮM TỪNG KHÓM CÚC DẠI
VÀ BẮT GẶP BÓNG EM BÊN KHUNG CỬA SỔ
CÓ GIỌNG CƯỜI CHEN LẪN TIẾNG CHUÔNG NHÀ THỜ
NƠI ĐÓ SỰ BÌNH AN VÀ NỖI LO SỢ CHEN NHAU
NHƯ CỤM KHÓI CỐ THOÁT RA TỪ MÁI NHÀ MÙA ĐÔNG
ĐỂ  HÒA VÀO CÁNH RỪNG PHONG ĐỎ ỐI
MƯA TUYẾT BẮT ĐẦU RƠI
TRÊN NHỮNG HƠI THỞ DÀI
MỆT MỎI TRẦM LUÂN


Ở MỘT CĂN NHÀ NÀO ĐÓ
LAO XAO TIẾNG ỒN VÀ LY RƯỢU VỠ
BÓNG ĐÊM ĐÃ ĐI QUA NHƯ THẾ NHIỀU LẦN
KÉO THEO KHUÔN MẶT THÂN QUEN CỦA AI ĐÓ
ANH CỐ NHÌN MÀ KHÔNG HỀ NHẬN RA
NHƯ ANH ĐÃ TỪNG GỌI TÊN MÌNH
TRONG CƠN THẢNG THỐT CỦA MỘT NGÀY HIU QUẠNH
NGỌN GIÓ MÙA ĐÔNG NGỒI TRONG VÒNG TAY
ANH CỐ NGHĨ VỀ EM RỒI BƯỚC ĐI VỘI VÃ
NHƯ NGHĨ VỀ MỘT HƠI ẤM MUỘN MÀNG
ÁNH LỬA CỦA TRÍ NHỚ



Ở MỘT KHÚC SÔNG NÀO ĐÓ
NƠI ANH HOÀI NIỆM VỀ MỘT THỜI ĐÃ QUA
NƯỚC KHÔNG HỀ CHẢY ĐI
NHƯ THÁNG NĂM VẪN CÒN ĐỌNG LẠI
TRONG KÝ ỨC RONG RÊU VỤN VỠ
ANH LẮNG NGHE TIẾNG CHIM HÓT  VÀO MỘT BUỔI CHIỀU DĨ VÃNG
SÓNG GIÓ RÌ RÀO TRONG TỪNG CỌNG LAU KHÔ
BẢN HỢP XƯỚNG CỦA MÙA ĐÔNG
NƠI ĐÂY ANH ĐÃ TRẢI QUA NHỮNG NGÀY DÀI HẠNH PHÚC
XIN ĐƯỢC CÁM ƠN EM.



Ở MỘT CÔNG VIÊN NÀO ĐÓ
NGƯỜI ĐÀN ÔNG KÉO CAO CỔ ÁO GIÓ
TRONG ĐÔI TAY LẠNH CÓNG MÙA ĐÔNG
ĐÃ BẮT GẶP ÁNH LỬA CỦA KHÓI THUỐC
ĐÀN QUẠ ĐEN CŨNG ĐÃ QUAY TRỞ LẠI
CHIA NHAU TỪNG KHẨU PHẦN CỦA KÝ ỨC
VÀ KÊU LÊN NHỮNG ÂM THANH BUỒN BÃ
TẬN CÙNG PHÍA BÊN KIA CON PHỐ
EM CỦA MỘT THỜI BÊN ANH
KHÔNG CÒN NỮA.


HUỲNH NGỌC THƯƠNG

Văn Tế Nha Kỹ Thuật / Lôi Hổ Hùynh Ngọc Thương

DZUÍ   !   !   !.....
Ô HÔ  ! THƯƠNG THAY !...
HỎI  ƠI  !  HƯƠNG LINH TRƯỚC ÁNG
HỒN PHẤT PHƯỞNG MƯƠÌ PHƯƠNG !
HÔM NAY ĐÂY

ĐỒNG ĐỘI CÁC ANH VỀ ĐÂY TỤ HỘI
BÊN TRỜI LẬN ĐẬN, ĐÓT NÉN TÂM HƯƠNG !
NHỚ LINH XƯA !
NHA KỸ THUẬT HỀ ! ĐOÀN QUÂN VIỄN CHIẾN
HẮC LONG, LÔI HỔ HỀ ! 
NHỮNG TRẬN ĐỊA VÔ DANH

CÁC ANH ĐI TRỜI XA ĐẤT BẮC
NẼO BIÊN THÙY, ĐÁ NÚI CŨNG NGHIÊNG ĐẦU !

AI TRÁCH ANH, ĐEM THANH XUÂN VÀO TRẬN !
SỞ BẮC NAY ĐÂU! TUỔỈ  18 ĐÔI MƯƠI
NĂM THÁNG DẠN DÀY NƠI CỔNG TRỜI XA LẮC

THẤT THẾ LƯU ĐÀY MẤT DẤU CHINH NHÂN !

VÀO TRẬN VỚI NHAU LÀ NHỮNG KINGBEE KIÊU DŨNG
TRIỆT XUẤT, CỨU TOÁN, SINH TỬ CÓ SỜN GAN !
ÔI THẦN PHONG, LONG MÃ ! 
LƯỚT GIÓ CAN TRƯỜNG TRONG LƯỚI ĐẠN PHÒNG KHÔNG !


AI CHINH CHIẾN MÀ KHÔNG HỀ TỔN THẤT
SA TRƯỜNG ĐI, MẤY THUỞ CÓ MONG VỀ  !

CHÚNG TÔI ĐÂY, NHỮNG NGƯỜI NĂM CỦ
NGOẢNH MẶT LẠI KẺ CÒN NGƯỜI MẤT !

LUỐNG TRÔNG NHAU LẮM NỔI NGẬM NGÙI !

CHỐN  U  MINH ANH HỒN TỨC TƯỞI 
NƠI QUÊ NGƯỜI SẠM MẶT OAN KHIÊN !
VẬN NƯỚC ĐÃ KHÔNG PHÒ NGƯỜI GIÚP NƯỚC  !
KHIẾN ĐỒNG MINH ĐỔI DẠ THAY LÒNG !


GIẬN LẮM THAY !
NGÀN DẶM XƯƠNG PHƠI ĐƯỜNG MÒN BIÊN GIỚI
VẠN THUỞ TRỜI NAM MÁU UẤT NGHẸN TRÀO !

ĐÃ BIẾT ANH HÙNG KHI LỠ VẬN !
SÁ GÌ PHIÊU BẠT BỐN PHƯƠNG  Ư  !

ĐƯỢC HAY MẤT CŨNG MỘT ĐỜI DŨNG SĨ
ƠN NƯỚC ĐỀN CHƯA ? LỔI HẸN TÌNH NHÀ  !

ƠI XÓT XA TƯỞNG NHỚ ! 
HỒN LINH HIỂN THẤU CHĂNG !
THẤM THOẮT ĐÃ 39 NĂM VONG QUỐC

MỚI NGÀY NÀO GIAN KHỔ CÓ NHAU !

NHA KỸ THUẬT, KINGBEE BÊN TRỜI LỮA ĐẠN 
NHỚ CÂU THỀ :
DÙ BƯỚC QUA THUNG LŨNG TRONG BÓNG TỐI CỦA TỬ THẦN
NHƯNG TA KHÔNG SỢ GÌ CẢ

VÌ TA LÀ KẺ TÀN TẠ NHẤT TRONG THUNG LŨNG NẦY!

ÔI ! LÀM CHIẾN SĨ VÔ DANH ! ÂM THẦM TRONG BÓNG TỐI 
THÌ VINH QUANG KHÔNG VƯỢT KHỎI BÓNG ĐÊM !

SƠN ƠI ! CÁNH DÙ MA ĐÃ KHUẤT 

RỪNG NHỚ NGƯỜI, LÔI HỔ NHỚ NON  CAO !

KÌA BIỂN ĐÔNG AI ĐẠP SÓNG BA ĐÀO !
HỒN BIỆT HẢI HOÀNG SA CHIẾN TỬ 
BA TOÁN KHÔNG VỀ !
BIỂN GHI CHIẾN SỬ!
BỌN CỘNG TÀU BẠT VÍA XÂM LĂNG !

CÁC ANH ĐI ĐÃ TRỌN THỀ VỚI NƯỚC 
BIỂN NHỚ NGƯỜI VỔ MÃI SÓNG NGÀN NĂM !

ÔI  OAI LINH LÀ THẾ !
NHỮNG NGƯỜI TRAI SINH THỜI CHIẾN LOẠN 
KHI SA CƠ KHÔNG CHÚT NAO LÒNG 


NHA KỸ THUẬT HỀ ! 
BIỆT HẢI  ! KINGBEE ! SỞ BẮC !
CHIẾN SĨ VÔ DANH HỀ ! 
LƯU DẤU VẠN KỲ CÔNG !

HÔM NAY ĐÂY BUỒN TRÔNG CỐ QUỐC
NHỚ XƯA HỀ ! 

LÒNG KHẮC KHOẢI KHÔN NGUÔI !

GIẬN BỌN VONG BẢN CÚI ĐẦU VỚI  GIẶC 
DÂNG BIỂN , DÂNG ĐẤT 
HÈN VỚI GIẶC, ÁC VỚI DÂN
SAO KHÔNG TỦI THẸN VỚI TIỀN NHÂN  ? !

Ô  HÔ  ! 

HỒN TỬ SĨ OAI LINH  ! 
CHỨNG CHO LÒNG SON SẮC! 
RƯỢU BA CHUNG MÀ LÒNG HÉO HẮC
HỒN PHẤT PHƯỠNG NƠI ĐÂU 
VỀ ĐÂY !
HÃY VỀ ĐÂY  !
THƯỢNG HƯỠNG

Bom CBU và Mặt Trận Phan Rang 1975



 Thưa các Mẹ, các Chị, và các em nhỏ của vựa muối Ca Ná - Phan Rang năm xưa. Nếu tôi không viết lên những lời nầy thì chắc khi nhắm mắt lìa đời, tôi sẽ vô cùng xấu hổ và tự coi như mình là kẻ vong ân. Cho dù sau đó 17 năm tôi có về tìm lại các Mẹ, các Chị, và đã đốt nén nhang tại bờ biển Cà Ná, cùng nải chuối, dĩa trầu cau, mà số tiền ít ỏi của tôi có được lúc đó, để đi từ vùng Kinh Tế Mới Đồng Xoài tận Mật Khu Mã Đà về Cà Ná tìm lại các Mẹ, để nói vài lời cám ơn cứu mạng, bảo dưỡng, Nhưng tôi đã không có cơ hội bày tỏ, vì sau ngày Miền Nam rơi vào tay Cọng Sãn, vật đổi sao dời, tôi ở tù về, rồi bị bắt đi Vùng Kinh Tế Mới, cuộc sống lam lũ, cơm chẳng đủ ăn, gia đình tan nát, mất vợ, xa con ,...lấy đâu ra tiền để đi về thăm lại các Mẹ, các chị, những người mà tôi đã chịu ơn cứu mạng năm xưa ..
Theo lệnh Hành Quân của Đại Tá Chỉ Huy Trưởng Sở Liên Lạc,  Đoàn chúng tôi sẽ cử 1 Toán vào tham gia phòng thủ tại Dinh Độc Lập cùng quân số với các Đoàn khác, một nửa quân số do Thiếu Tá Nguyễn Văn Được chỉ huy vào tham gia phòng thủ Phi Trường Tân Sơn Nhất, số còn lại gồm nhưng người tình nguyện gồm 4 Toán hành quân, Ban Tham Mưu dã chiến, sẽ do đích thân Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng Tống Hồ Huấn chỉ huy để sáng ngày 03-04-75 sẽ có một phi vụ đặc biệt chở toàn bộ ra Phan Rang ứng chiến, và đặc dưới quyền của Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi là Tư Lệnh Tiền phương của Quân Đoàn 3. Ân huệ cho chúng tôi được ban ra do công điện của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu là mỗi người sẽ được đặc cách lên một cấp, cố gắng giúp Tướng Nghi thực hiện những nhu cầu hành quân mà quân bạn không đảm trách. Ngày 21-04-75 sẽ có quân số của Đoàn khác ra thay thế. Từ phòng họp bước ra, chúng tôi nhìn nhau không ai nói câu nào. Vì chưa bao giờ có cái ban thưởng đặc biệt như vậy trong quân đội, hành quân thì hành quân, chuyện cơm bửa của lính, sao nay lại hứa hẹn trước sẽ thăng cấp khi xuống Phan Rang. Đại Úy Đặng Bá Lộc nói với Thuần và tôi: Tau chắc kỳ nầy đi khó quay trở lại. Thiếu Tá Huấn quay lui nhăn mặt: Ê , Lộc nói bậy gì đó, anh em khác nghe được bàn tán rồi mất khí thế. Đại Úy Lưu văn Thuần cười khề: giởn chơi thôi Thiếu Tá, đi không về là chuyện thường của Lôi Hổ, Kinh Kha thời đại mà... Nhưng tôi cấm không được nói với binh sĩ, Thiếu tá Huấn quay lại quắc mắt nói, Lê Đí, Lê Hưng, Nguyễn văn Ấn cả 3 cùng cười, nói nhỏ : Lính Lôi Hổ tinh như ma, cả lảnh thổ Quân Đòan 3 đông nghẹt lính tứ tán chạy về, ai mà không biết chuyện gì xảy ra, bảo cho thăng cấp trước hành quân là chúng nó biết ngay. Mà anh em sống chết bên nhau lâu đời làm sao giấu được. Mỗi người một câu chúng tôi rồi cũng chia tay, ai về lo việc người đó. Cả Phi trường Phan Rang như đang tắm trong cái nóng của vùng cát nắng, từng đợt không khí loãng bốc lên chờn vờn như bầy thú hoang ngoài hàng rào phòng thủ của phi trường. ủa, mà sao lại vắng thế nầy, lính tráng đâu không thấy, thấp thoáng trong các căn nhà Bộ Chỉ Huy Hành Quân có vài người qua lại. Đơn vị chúng tôi được 2 vị Tướng chỉ huy mặt trận tiếp đón niềm nở ra vẻ ưu tiên và cho được nằm cạnh Phòng hành quân. Thỉnh thoảng có vài tiếng nổ của đạn pháo 130 ly ngoài xa.
Trên bầu trời bây giờ xuất hiện 3 chiếc A37 đang bay về, phiá sau 1 đoàn 6 chiếc trực thăng đang từ từ hạ cánh trước Bộ Chỉ Huy Hành Quân, chúng tôi thấy những binh sĩ Nhảy Dù lần lược rời phi cơ, có một Đ/u đang tập họp, trong đám họ có người không có ba lô, có người không có súng, tôi tiến đến xem có ai quen thì ra Đại Úy Nguyễn Văn Bé bạn cùng khóa. Tôi hỏi bạn sao lính mầy lôi thôi vậy, Bé cười buồn, bọn tao bị tụi nó cáp duồng tại Khánh Dương, đánh nhau một trận tơi bời hoa lá mới ra thân thể nầy. Bây giờ nhận lệnh Trung Tá Phát Lữ Đòan Trưởng Lử Đoàn 3 Nhảy Dù, cho tái trang bị rồi chơi tiếp. À, mà Biệt Kích tụi mầy ra đây chi vậy. Biên giới mới là sân chơi của tụi mầy mà. Tôi nói, lính mà em, đâu có giặc thì ta cứ đi. Bé chửi thề một câu rồi chép miệng, nóng lắm nghe mậy, tình hình bi đát lắm đó, tụi nó có đến 3 Công Trường, chưa kể thiết giáp, pháo phòng không và cả mấy Trung Đoàn tăng viện. Rồi Bé nói tiếp: tụi tao đụng bọn Sư Đoàn 3 Sao Vàng, toàn bọn lính non choẹt, nhưng khổ nổi chúng nó đông quá, lại được yểm trợ tụi Tăng T.54 và Pháo tập. Bọn tao bị phục kích đánh chia cắt cô lập, không phương tiện yểm trợ như trước, bọn mầy cũng hãy coi chừng, thôi, mai gặp. Tôi bắt tay cám ơn bạn, từ ngày ra trường bây giờ mới gặp nhau, chẳng có một ly bia để uống mừng hội ngộ, không kịp hỏi han về gia đình, chiến trường mà.!. Vào họp để nghe Chỉ Huy Trưởng Chiến Đòan ban lệnh, khi ra khỏi phòng thì trời cũng đã về chiều, Ngoài xa là một Đơn vị bạn đang đổi tuyến. Tôi lầm lủi về vị trí tập trung để ăn cơm chiều. Đại Úy Nguyễn văn Dẫn cũng đang đưa Toán của anh đến gần và hỏi tôi thấy có gì lạ không. Tăng lùn và Phúc mát nhe răng cười: Tụi mình lâu nay đi làm ăn riêng lẻ, từng Toán xa tít mù khơi, bây giờ hoạt động chung với Dù, Bộ Binh, Địa Phương Quân, lại có cả xe tăng, máy bay lũ khũ, đông vui quá xá, sợ gì chớ.. Thật vậy, đơn
vị chúng tôi bao giờ cũng làm ăn lẻ, có đâu như bây giờ đông quá Hải Đen xen vào: Các anh nghỉ xem, đông như đại chiến thế nầy mới là nguy đó. Tình hình sao người ta mới đưa mình ra đây, lại còn cho lên lon trước nửa chứ, tôi không ham.!, Nghe Hải nói có lý, tôi thầm nhủ, mình ra đây là do tình nguyện, mà không tình nguyện cũng phải đi. Tất cả quân Tổng Trừ Bị đều đã bị ném ra các vùng chiến thuật hết cả rồi .thôi thì < Mẹ đã lấy tiền rồi con ơi ! Lôi Hổ ! Sá Gì > Đã vào binh chủng nầy rồi thì thân mạng có sá gì  ...... chúng tôi thường bảo nhau như thế, 1giờ 40 phút trưa ngày 05-04-1975, tất cả 4 Toán đã nhận đầy đủ nhiệm vụ xâm nhập là truy tìm vị trí đóng quân của VC, phát hiện và báo cáo về Bộ Chỉ Huy Tiền Phương, Bắt tù binh để khai thác ý đồ tiến công ,Thăm dò và hướng dẫn quân bạn thất lạc tại Khánh Dương trở về và cố tìm kiếm xem vị trí phòng không cũng như các Đơn vị xe Tăng của đối phương
....Những thông tin nầy rất quan trọng cho việc điều quân phòng thủ căn cứ Phan Rang, đã được Tướng Nghi quan tâm đặc biệt, ông cho biết Phan Rang bây giờ như yết hầu của cả Miền Nam, với quân số ít ỏi rất khó phòng ngự, mặc dù bên ta có lực lượng phi cơ tác chiến với tinh thần rất cao, nhưng ta đã mất điểm tiếp tế xăng dầu tại Cam Ranh, tất cả điều phải nhận từ Sài Gòn. Kho xăng dự trử tại phi trường đã bị địch pháo kích, các ngày sắp tới sẽ được tăng viện thêm 2 Trung Đoàn BB và có thể thêm một Lữ Đoàn Nhảy Dù... các Toán Lôi Hổ phải thám sát kỷ mặt Tây Quận Tân Mỹ trải xuống Bắc và Đông Bắc Quận Du Long, trước khi các đơn vị bạn được điều động đến Chiến Đoàn 1 chúng tôi có 4 Toán tham gia trận nầy là Toán Hải Sơn, Hải Vân, Hải Yến và Hải Điểu do 4 sĩ quan cấp  Thiếu úy chỉ huy, nhưng lúc nầy bảng Công tác đã ghi cấp bậc mới là Trung úy, còn nhân viên Toán cũng điều được Đại Úy Lộc ghi thêm 1 cấp, nhưng điều nầy chẳng mấy ai quan tâm. Đại Úy Thuần nói để hôm về SG sẽ làm lể khao lon một lược cho vui, (nhưng điều nầy chẳng bao giờ đến với đơn vị chúng tôi nữa), Các Toán được tôi hướng dẫn qua kho quân nhu của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 6 Không Quân lãnh lương khô và trang bị hành quân. Đến khoãng 4 giờ chiều thì các Toán trở về vị trí để trang bị. Tôi đến bắt tay mừng các Toán Trưởng như Trung Úy Trần Công Minh, Nguyễn văn Nhung, Nguyễn văn Tiếp và Đại Úy Nguyễn Văn Dẫn cùng chuyện trò với các anh em khác, Lệnh xâm nhập đã được ban hành: sáng mai lúc 9 giở 30, Phi Đoàn 229 trực thăng sẽ bốc Toán vào vùng. Tôi đứng trước phòng họp của Bộ Chỉ Huy Tiền Phương cùng vị Chỉ Huy Trưởng Đoàn 1 và  đưa mắt tiển theo các chiếc trực thăng mang đi những bạn mình vào vùng nguy hiểm, trong thâm tâm chúng tôi điều biết lần nầy may ít rủi nhiều, có cái gì rất khác những trận Quãng Trị, Hạ Lào, hay trận Lai Khê An Lộc  mà tôi đã từng tham dự. nhưng tôi không tài nào lý giãi được. Nhìn cho khuất bóng những con tàu ở cuối chân mây, tôi thầm cầu nguyện Mẹ Quán Thế Âm, Mẹ Maria, xin độ cho những Kinh Kha ra đi hãy được trở về!
Đến trưa các Sĩ Quan Tiền Không Sát đã về, tin từ những Toán xâm nhập báo cho biết vào vùng an toàn. tôi vào phòng Truyền Tin để theo dỏi thêm một lúc nữa, tình trạng các Toán vẫn ổn. Có lẽ Địch chủ quan vì được tuyên truyền bên ta đã bỏ ngỏ Phan Rang, hoặc đang say men chiến thắng vì đã chiếm được Nha Trang không tốn một viên đạn, nên không chú tâm đến mối đe dọa đang rình rập: Biệt Kích Lôi Hổ đang săn lùng chúng mầy ...
Và những gì đến đã đến, Toán Hải Vân của Trung Úy Trần Công Minh đả tóm gọn được 2 cán binh thuộc Công Trường 968 đang gởi về làm quà ra mắt cho Trung Tướng Nghi, tiếp đến Toán Hải Yến cũng tóm được 1 cán binh quan trọng thuộc F.10 của SĐ 3 Sao Vàng. Toán của Đại úy Dẫn và Trung Úy Tiếp cũng cho biết tọa độ đóng quân của 2 Trung Đoàn Bắc Việt thuộc SĐ 325 chủ lực. Bộ Tư Lệnh Tiền Phương bây giờ như có con mắt thần từ xa, Tướng Nghi báo về Sài Gòn xin cho ra tăng viện Lữ Đoàn 2 Dù và điều động 2 Trung Đoàn Bộ Binh 4 và 5 từ Bình Thuận ra. Còn sau đó là những gì thì tôi không được biết nhưng trưa ngày 9-4-75, thì tôi và Đại Úy Lê Đí cùng Long râu, Thắng Huế, lên một chiếc trực thăng, bên kia Đại Úy Thuần và các anh em khác như  Ngyễn văn Ấn, Lê Hưng lên một  chiếc khác bay ra hướng Du Long, phiá Tây Nam của Ba Ngòi và đáp xuống, nơi đây là khu rừng thấp nằm trên triền một ngọn đồi, những cán binh Bắc Việt nằm ngồi ngỗn ngang, có anh mắt đã lồi tròng trông rất khũng khiếp, có anh máu ra từ mũi, miệng, 2 tai, có người lưỡi thè ra gần một gang tay, người thì 2 tay cấu vào ngực, tôi thấy một người mặt còn rất trẻ, 2 tay nắm lấy khẩu CKC, tôi cúi xuống cầm khẩu súng nhưng không tài nào giựt ra được vì 2 tay anh ta nắm rất  chặc.. Lê Đí báo về Bộ Chỉ Huy Hành Quân và liên lạc với Thuần đang ở mục tiêu khác thì tình hình cũng như  bên nầy. Chúng tôi cố lượm vài khẫu súng K.54 và thu gom ít tài liệu từ những cái cạp-dề rồi vội vàng lên trực thăng để về báo cáo lại tình hình. Sau đó Tướng Nghi và Tướng Sang gọi Trung Tá Tống Hồ Huấn lên để nói những lời khen thưởng anh em Lôi Hổ Nha Kỹ Thuật. Chính Trung Tá Huấn cũng không biết điều gì đã xãy ra. Sau  nầy ngồi bàn tán mới suy đoán được là nhờ sự phát hiện của Toán xâm nhập, Bộ Chỉ Huy Tiền Phương đã xin Lệnh từ Sài Gòn và kết quả là 2 trái CBU đã được Không Lực VNCH qua sự chấp thuận của một người Mỹ mặc thường phục là Sĩ Quan đại diện của Tòa Đại Sứ Mỹ tại vùng 2 hình như tên ông ta là Lewis (nói rất rành tiếng Việt đúng giọng cả 3 Miền) xin cấp trên của họ chấp thuận, nhằm mục đích ngăn chận sức tiến quân của bộ đội BV, nhờ đó mà Mặt Trận Phan Rang mới cầm cự được thêm gần 1 tuần lể và các đơn vị BV mới tạm thời rút quân lui về ẩn giấu tại khu vực Vườn Dừa và Ba Ngòi để chờ lệnh và chính nhờ sức phòng thủ của tất cả các Quân binh chủng bạn như các đơn vị Địa Phương Quân, nghĩa Quân, các chiến sĩ bộ chiến thuộc SĐ 2 BB, và nhất là sức chiến đấu ngoan cường của 1 Tiểu Đoàn thuộc Lữ Đoàn 3 Dù và Lữ Đoàn 2 Dù của Đại Tá Nguyễn Thu Lương mà Phan Rang đã giữ vững suốt trong 2 tuần lể, kể từ khi mất Nha Trang, nhờ đó mà Sàigòn có thêm cơ hội tổ chức chiến đấu để người Mỹ kịp đưa người di tãn trước khi mất Miền Nam Việt Nam. Rốt cuộc, Phan Rang mà chúng tôi nhận lệnh hành quân từ SG; không phải là bàn đạp để tái chiếm Nha Trang thân yêu, cái thành phố biển hiền hòa trong lòng người dân Việt, mà ngược lại, đây chỉ là thâm ý của giới chính trị Hoa Kỳ, biến Phan Rang thành một chốt chặn tạm thời để họ thu xếp cho cuộc di tản Sàigòn, và tất cả chiến binh tại mặt trận Phan Rang từ người lính cho đến cấp chỉ huy chung quy cũng chỉ là con chốt thí! Tuy suy nghỉ như vậy, nhưng đã là chiến binh, chúng tôi, tất cả người lính của Miền Nam VN, trong mọi hoàn cảnh, đều luôn chấp hành triệt để quân lệnh trong nghiệt ngả gian nguy, nhằm mục đích chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc và an dân. Sau chiến tranh, chúng tôi  mỗi người một nơi, kẻ lưu lạc xứ người, kẻ bị đoạ đày trong trại cải tạo, nhưng sau khi trở về đời sống dân thường vẫn giử được khí tiết và sống đời trong sạch, không gian manh trộm cướp, nhũng loạn đồng bào. Vị chỉ huy trực tiếp của chúng tôi là Trung Tá Tống Hồ Huấn sau khi ra tù, sang Tân Tây Lan theo sự bảo lảnh của người em vợ cũng đã trở thành vị Mục Sư tin lành, cho dù ông ta đã có vài lần xử ép tôi , nhưng đó là quân đội, thi hành trước khiếu nại sau,  phải không Trung Tá Mục Sư .



Suốt một đêm không ngũ trọn giấc, Cộng quân với ưu thế pháo binh do các nước quốc tế Cọng Sãn hổ trợ ào ạt, còn bên phe ta  QLVNCH  thì kể từ năm 1972, các văn thư gởi đi từ Bộ TTM bắt phải gởi về các cấp số đạn pháo 105 ly, 106 ly không giật, cối 81 ly, gọi là đem về đổi, nhưng đạn gởi về thì có, mà đạn đổi lại thì không, Trời ơi, VC thì tha hồ bắn phá; làm mưa làm gió, còn bên ta phải rút cấp số đạn, trước xin 100 tràn, thậm chí 2,3 trăm tràng có liền, nay phải chờ quyết đinh từ Sư Đoàn, rồi năm sau chờ Quân Đoàn chấp thuận, mà lại giãm xuống chỉ còn 30 tràng, rồi 20, như hồi 1973 tại Trảng Lớn - Tây Ninh và năm 1974 tại Bình Long - An Lộc ... lý do được viết trong Văn Thư là các loại đạn không an toàn, yêu cầu đơn vị gởi về gấp, số phận của các loại đạn nầy đi về đâu thì tôi không biết, chỉ biết là chiến trường thiếu đạn, Xăng khan hiếm, các cơ phận quân cụ cho máy bay, xe tăng, thiết giáp, GMC,....đều không có trong bảng cấp số. Là một sĩ quan tác chiến hành quân tôi đâu biết gì hơn, nào Hiệp Định Paris , nào Liên Hiệp 4 bên ,....3 bên ...chi chì.... quá ư là rắc rối, tôi không đủ kiến thức trang bị để hiểu về chình trị. Bó tay ! Sáng hôm nay 7-4-75, tôi mượn đở bên Không Quân chiếc Jeep, kêu mấy ông Thuần, Đí và mấy nhân viên Toán như Hoàng Tăng (Tăng răng vàng) Trịnh Ngọc Cơ (Cơ hồi chánh) Phan Gia Thanh (Thạnh mập), T/S Nguyễn Văn Đại lên xe tìm đường ra thị xã Phan Rang tìm chút tươi mát (xin chớ hiểu chữ tươi mát nầy theo nghĩa trong nước bây giờ, ý tôi là tìm ít thức ăn như rau cải, cà mướp .....) , vì phi trường mấy lâu nay bị vây kín do áp lực của du kích địa phương, nên vị Chuẩn tướng Tư Lệnh SĐ 6 /KQ ra lệnh nội bất xuất, ngoại bất nhập, còn ông Tỉnh Trưởng Phan Rang nghe đâu về SG họp, cơ số lính Điạ phương không ai điều động, nay ông mới trở về, chỉnh đốn các Tiểu Đoàn Điạ phương và an ninh Thị Xã Phan Rang được lập lại, Ông Tướng cho phép chúng tôi được ra ngoài để tìm mua thức ăn tươi. Khi xe tôi chạy gần đến cổng số 1 thì gặp xe của Đ/u Bé với 6 lính dù trang bị đầy đủ,  Bé vẩy tôi lại và nói: Ê, mấy tướng Biệt Kích đi đâu vậy . Tôi nói ra ngoài phố tìm mua thức ăn tươi. Bé nói đi qua Tháp Chàm không được đâu, tụi VC đang ở trong Tháp vừa dùng cối, và đạn bắn tỉa xưống đường, muốn đi thì tụi mầy với tụi tao phối hợp làm 2 mũi tấn công lên Tháp, quân số của tao chia ra sợ không đủ sức yểm trợ cho nhau. Mầy tính sao ? Tôi đang hội ý với Thuần và các anh em mình thì bị Bé chơi xỏ nói giọng khiêu khích :  Mà thôi, Lôi Hổ thấy ngại thì để tụi tao xông lên làm thịt mấy thằng Vi Ci, còn bọn mầy cứ ở đây chờ xem Lính Dù tụi tao làm... Nghe mà phát tức, tôi nói : Đánh lớn là sở trường tụi mầy, còn đánh gọn nhẹ là nghề của tụi tao nghe mầy, để tao lên trước cho. Thế là chúng tôi chia nhau làm 2 tốp, vừa tiến vừa quan sát tình hình.  Bé cũng dàn lính thành 2 tổ tiến lên phía Đông. Chúng tôi băng qua đường rầy xe lửa thật nhanh và nép sát theo độ dốc của ngọn đồi, Bên quân của Bé vừa tiến vừa bắn làm nghi binh trước mặt nơi con đường dẫn lên Tháp, chúng tôi lẳng lặng 2 nhóm âm thầm tiến ở mặt sau. Khi gần đến chân ngọn Tháp thì Thạnh dùng M.79 lảy liên tiếp 3 trái vào ô trống của Tháp từ trên xuống dưới, tưởng cũng phải nói Thạnh mập vốn là tay xạ thủ M.79, súng của hắn đã mài cơ bẩm ,vừa bắn vừa thảy vỏ đạn 1 tay , tay kia nạp đạn là bắn liền 3 quả đạn đi mà nghe đâu như nổ cùng một lúc. Thạnh Zăngô là biệt danh của hắn Hướng trước có nhiều tràng đạn M16 của lính Dù, Trong Tháp Địch phản ứng yếu ớt, Tôi đưa điếu thuốc đang hút dở chuyền qua Trịnh Ngọc Cơ rồi tung người ném tiếp 2 trái Mini về hướng Tháp, Đại cũng xả súng nhắm vào một tên rồi 2 tên đang bị áp lực của lính Dù đánh phía trước chạy nộp mạng cho chúng tôi. hướng bên kia Thuần và Tăng răng vàng cũng đang dùng lựu đạn thanh toán mấy tên du kích, Toán của Bé vào Tháp trước, hắn phất tay ra hiệu cho chúng tôi là đã thanh toán xong mục tiêu.  Bây giò điếu thuốc cũng chuyền qua tay của Đại và về đến tay tôi .Thế là xong, cái chướng ngại mà mấy anh nghiã quân chưa kịp ra tay đã được Dù và Lôi Hổ phối hợp giãi toã như trò đùa. Bé lấy cây cối 82 ly đưa ra nói: Ông cần cái nầy không, trong đó còn mấy khẩuB.41 nửa. Chúng tôi cười: Lôi Hổ không cần chiến lợi phẩm, cũng không cần ai nhắc đến tên, hay công trạng gì cả, Chiến Sĩ Vô Danh mà bạn, ông cứ lấy đi. Rồi ra phố kiếm mấy con Tắc Kè Nhông làm một bưã sum họp. Bé tiếc rẻ từ chối vì còn phải đi dẹp mấy cái chốt nữa, chưa xong công việc đâu bạn, ông Tướng gọt đầu tụi tao bây giờ! Cũng từ đó đến nay tôi không có cơ hội gặp lại bạn ấy nữa, xin chúc mọi sự bình an cho bạn ! (Đại úy Nguyễn Văn Bé, con của vị Thượng sĩ già Nhảy Dù, Cựu binh Điện Biên Phủ)  Chúng tôi ra phố tìm được quán nhậu xập xệ, trước cửa treo lũng lẵng mấy con Kè Nhông, Kêu 1 dĩa hắn chém đến 500 đồng Hưng Đạo. thêm một đứa một tô cháo và uống vội vài chai 33. Xong bang ra khu chợ chồm hổm mua mấy bó hành ngò, rau cải, khoai lang và bí rợ, vì trong phi trường mấy bữa cấm cung , ông Trung Tá Không Quân cho phép chúng tôi hạ mấy con bò làm lương thực, bò ăn ngon nhưng nóng quá. Khi đi ngang qua đám mấy người dân tụ tập chúng tôi hỏi thăm tình hình bà con, và được nghe họ kể một chuyện lạ tai: mấy anh biết không, mấy bữa nay không biết sâu róm ở đâu trong rừng cứ bò ra miết, từng đoàn từng đoàn như lính vậy, hết tốp nầy đến tốp khác như đi diễu binh vậy đó. Tôi hỏi: Thưa bác vậy có biết chúng bò đi đâu không? , Thì cứ nhắm hướng biển mà bò ra , rồi cùng nhào xuớng biển sóng cuốn trôi hết trơn Thuần xen vào: Hôm qua tôi có nghe anh lính Địa Phương Quân vào kể chuyện nầy, tôi không tin thật , nên bây giờ nhân tiện ra xem cho biết thật hư, Tôi nói không chừng tụi VC dùng lối tuyên truyền xám để gây hoang mang cũng nên. Chị lớn tuổi đúng kế bên bảo: Các ông đa nghi thì thôi, tụi tôi đồng là vợ lính mình cả, không tin thì cứ ra quốc lộ thấy liền Chúng tôi cám ơn chị rồi lên xe nhắm hướng đường chạy tiếp. Năm phút sau thì quả thật, trên đường xác sâu róm nằm khô queo, xe của dân di tản chạy vào hướng Nam cán lên nát bấy mà chúng cũng cứ bò thản nhiên như không có chuyện gì xãy ra. Tôi muốn lần ra bờ biển xem cho biết, nhưng T/s Tiến nói thôi đừng đi , ngoài đó chưa an ninh. Chúng tôi quay vào chợ mà lòng ngổn ngang suy nghỉ vẫn vơ. câu nói  sâu róm đi từng đoàn như lính nhào xuống biển...., tôi nhắc đi nhắc lại câu: Như lính nhào xuống biển ...  Quay lại tìm một quán Cà Phê nhân tiện mua vài gói thuốc lá , thì lại nghe một câu chuyện lạ khác, một anh lính nghĩa quân nói cho chúng tôi nghe là tại làng Thanh Thủy, quê hương của TT Nguyễn Văn Thiệu có Hòn Núi DAO, tự nhiên cục đá Dao trên đỉnh núi sau một cơn mưa đã lăn nhào xuống chân núi, vở làm 2 mãnh, mặt trong của 2 mãnh vở có hình ngoằn ngèo như chữ viết của người CHĂM, Ông Xã Trưỡng cũng có nhờ mấy ông bô lão Chăm Pa ra tìm cách đọc, nhưng hình như không ai đọc được. Chúng tôi cũng hiếu kỳ muốn đi ra đó xem sao, nhưng trên đường xe cộ xuôi Nam quá nhiều, hơn nửa lại còn phải đi vào Phi Trường, sợ Ông Tướng Tư Lệnh cho đóng cổng thì bỏ mẹ. Hồi còn nhỏ tôi được truyền dạy ít kinh nghiệm về Phong Thủy, sau ngày vào lính nghe đâu có kỳ nhân dị sĩ là tôi vội sắm lễ vật đến yết kiến xin thọ giáo, nên tôi vận dụng những điều học được để khảo hạch, Như hồi cuối tháng 3/75, đang tuần gác doanh trại thì đêm hôm đó trên bầu trời chợt xuất hiện sao Thái Bạch (Sao Hôm và Sao Mai) di chuyễn từ Đông sang Tây, nhưng lạc vào cung hắc đạo của vị trí Sửu - Mùi, phạm Trung cung, là Bạch Hổ nhập Trung, lại còn có tiếng khua vang len keng lập bập như đe dọa, Thiên Hổ Trướng Khưu Cơ của Đức Trần Hưng Đạo nói đó lả điềm Binh Tan Tướng Chết, ngày mai lại nghe tin tại BTL/QĐ.3 Tướng Nguyễn Văn Hiếu bị ám sát, sau đó là cuộc rút quân cao nguyên, bây giờ lại thấy hiện tượng Sâu Róm bò ra biển, đá lăn trên Núi Dao, thật sự ngọn núi Dao theo phong Thủy là ngọn Bút Kình Thiên, nghe nói mộ tổ của TT Thiệu được an táng phương Đông Nam của ngọn núi nầy, Núi ở Phương Tây Bắc thuộc cung Càn là Thiên Môn, chân mộ hướng Đông Nam là Địa Hộ, chung quanh có cồn cát trải dài làm thế Long Hổ, lấy cửa biển làm Minh Đường tụ thủy. Tôi chưa có dịp đến tham quan. Hôm nay quả có điềm lạ xuất hiện là ứng sự không may cho quân mình, vì TT Thiệu là Nguyên Thủ Quốc Gia, nay lăng miếu bị phạm hung thì dân chúng miền Nam chắc cũng cùng chung số phận. Các bạn tôi thì vẫn tỉnh như rồi, bàn bạc về món thịt Tắc Kè Nhông của biển cát Phan Rang, hẹn nhau ngày về sẽ ghé vào xơi thêm lần nửa, nhưng đã hết cơ hội rồi bạn ơi. Lòng tôi cứ suy nghỉ miên mang, về đàn sâu, về hòn núi đá ....ôi , Phan Rang có thêm những điềm lạ ... (còn tiếp).....
Sức Cùng Lực Kiệt .......


Phan Rang và những điềm lạ báo trước .
(Lôi Hổ  Huỳnh Ngọc  CĐ 1/XK/NKT)